Hoàn cảnh diễn ra trận đánh Trận_chiến_biển_San_Hô

Ngày 7 tháng 12 1941, Nhật bất ngờ tấn công hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ tại Trân Châu cảng (Pearl Harbor), mở màn mặt trận Thái Bình Dương. Đến mùa hè 1942, đế quốc Nhật đã thống trị 1 vùng lãnh thổ gần 8 triệu km² bao gồm nhiều vùng đất ở Đông Á, Đông Nam ÁTây Thái Bình Dương. Trong khi đó, quân Đồng Minh sau những thất bại liên tiếp buộc phải có thời gian để hồi phục và chuẩn bị lực lượng phản công. Do đó, chiến thuật của quân Đồng Minh vào thời điểm đó là thiết lập 1 vành đai phòng thủ trên Thái Bình Dương. Hải quân Mỹ tổ chức phòng thủ tại New Caledonia, phía nam quần đảo Solomon còn hải quân Australia phòng thủ quanh khu vực phía đông và nam New Guinea. Tướng Douglas MacArthur lui về Australia thành lập bộ tư lệnh Tây Thái Bình Dương ở Melbourne.

Trong khi đó, bộ chỉ huy Nhật Bản bước vào năm 1942 có sự tranh cãi giữa hải quân và lục quân về phương hướng chiến lược. Trong khi lục quân Nhật có ý định củng cố vững chắc các lãnh thổ đã chiếm được thì ngược lại hải quân lại cho rằng mọi thành quả vừa đạt được sẽ không thể giữ lâu bền nếu quân Nhật chỉ giới hạn trong việc phòng thủ.[3]. Trong tình hình đó, người Nhật hoàn toàn có thể có thể tiến hành các chiến dịch đánh chiếm Úc, Ấn Độ, Hawaii và các căn cứ quan trọng khác trên Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Đó sẽ là vành đai phòng thủ từ xa của Nhật Bản.

Ngày 1112 tháng 3 1942, thủ tướng Nhật Hideki Tōjō đã tuyên bố tại đài phát thanh TokyoQuốc hội Nhật:

"Australia và New Zealand hiện đang nằm trong tầm tay của quân đội đế quốc Nhật và họ nên hiểu rằng chờ đợi sự tiếp viện vào thời điểm này là vô ích. Nếu chính phủ Australia vẫn không thay đổi chính sách đối ngoại thì họ sẽ phải chịu chung số phận với Indonesia, thuộc địa Hà Lan".[4]

Từ Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, các lực lượng Nhật Bản ngày càng tiến xa hơn về phía Nam và đe dọa Úc. Tháng 4 1942, quân đội Nhật xây dựng căn cứ tại Rabaul gần đảo New Britain, phía bắc New Guinea. Không quân Nhật cũng nhiều lần oanh tạc xuống hải cảng Darwin trên bờ biển phía Bắc nước Úc. Ý định của người Nhật là mở 2 hướng tấn công: 1 đổ bộ vào cảng Moresby và 2 là Tulagi thuộc quần đảo Solomon để có thể đưa vùng đông bắc Australia vào tầm khống chế và kiểm soát quần đảo Solomon. Phó đô đốc Shigeyoshi Inoue thành lập bốn lực lượng xung kích khác nhau gồm phó đô đốc Kiyohide Shima chỉ huy lực lượng tấn công Tulagi; phó đô đốc Marushige hành quân tại quần đảo Louisiade; phó đô đốc Sadamichi Kajioka chỉ huy lực lượng tấn công Morseby và phó đô đốc Aritomo Goto chỉ huy không lực trên các mẫu hạm. Các tư lệnh Nhật Bản rất lạc quan vì tưởng rằng hải quân Mỹ chỉ có một mẫu hạm trong vùng.

Hải quân đế quốc Nhật đã tổ chức 1 hạm đội với lực lượng gồm 2 hàng không mẫu hạm hạng nặng ShōkakuZuikaku (cả hai hàng không mẫu hạm này đều đã tham gia trận Trân Châu cảng), 1 hàng không mẫu hạm nhỏ Shōhō, 4 tuần dương hạm và một số tàu chở hàng cho kế hoạch tấn công. Tuy nhiên động hướng tấn công của quân Nhật đã bị phân đội Custer của tình báo Mỹ giải mã thành công nên hải quân Mỹ đã có kế hoạch đối phó. Hàng không mẫu hạm Yorktown đã có mặt tại biển Coral (biển San Hô) dưới sự chỉ huy của đô đốc Frank Jack Fletcher cùng với hàng không mẫu hạm USS Lexington đang trên đường đến. 2 hàng không mẫu hạm khác của Mỹ là HornetEnterprise đang ở quá xa chiến trường nên đã không thể tham gia trận đánh này.